Học ngoại ngữ là cả một quá trình. Để học tốt ngoại ngữ thì cần luyện tập, sử dụng, cũng như tiếp xúc với ngoại ngữ đó càng nhiều càng tốt. Khi việc tiếp xúc với ngoại ngữ trở thành một thói quen hàng ngày thì chúng ta mới có thể yêu thích nó một cách tự nhiên, tiếp thu dễ dàng hơn mà không cảm thấy gượng ép.

Đối với những bạn thích đọc sách, đọc truyện thì việc học ngoại ngữ qua các câu chuyện hay, ý nghĩa là một gợi ý thú vị và hiệu quả.

Mucwomen chia sẻ bài luyện nghe tiếng Trung qua truyện ngắn: Ba thanh sô cô la.

三塊巧克力 – Sān kuài qiǎokèlì – Ba thanh sô cô la

有個孩子放學後,在客廳裏玩籃球,不慎打落書架上的 一個花瓶.孩子慌忙用膠水把碎片粘起來,膽戰心驚地 放回原位.

Yǒu gè háizi fàngxué hòu, zài kètīng lǐ wán lánqiú, bù shèn dǎ luò shūjià shàng de yīgè huāpíng. Háizi huāngmáng yòng jiāoshuǐ bǎ suìpiàn zhān qǐlái, dǎnzhànxīnjīng de fàng huí yuán wèi.

Có một cậu bé sau khi tan học về, chơi bóng rổ không cẩn thận làm rơi bình hoa trên giá sách. Cậu vội vàng dùng keo dán những mảnh vỡ lại, trong lòng lo sợ đem bình hoa đặt trở lại vị trí cũ.

Tối hôm đó…

當天晚上,母親發現花瓶有些“變化”,就問 孩子:“是不是你打碎了花瓶?’’孩子靈機一動,說:“有 一隻野貓從窗外跳進來,碰倒了花瓶.

Dàngtiān wǎnshàng, mǔqīn fāxiàn huāpíng yǒuxiē “biànhuà”, jiù wèn háizi:“Shì bùshì nǐ dǎ suìle huāpíng?’’ Háizi língjī yīdòng, shuō:“Yǒuyī zhī yěmāo cóng chuāngwài tiào jìnlái, pèng dàole huāpíng.”

Tối hôm đó người mẹ phát hiện bình hoa có dấu hiệu lạ, bèn hỏi đứa con: “Có phải con đánh vỡ lọ hoa không?” Cậu bé nhanh trí nói: “Có một con mèo hoang từ ngoài cửa sổ nhảy vào, va vào bình hoa.”

”母親很清楚,孩 子在撒謊,但她沒有說什麼.

Mǔqīn hěn qīngchǔ, háizi zài sāhuǎng, dàn tā méiyǒu shuō shénme.

Người mẹ biết rõ đứa con đang nói dối, nhưng bà cũng không nói gì.

Thanh sô cô la thứ nhất

睡覺前,母親從抽屜裏拿 出一塊巧克力遞給孩子說:“這塊巧克力獎給你.因爲 你運用神奇的想象力,杜撰出一隻會開窗戶的貓,以後 你一定可以寫出好看的偵探小說.

Shuìjiào qián, mǔqīn cóng chōutì lǐ ná chū yīkuài qiǎokèlì dì gěi háizi shuō:“Zhè kuài qiǎokèlì jiǎng gěi nǐ. Yīnwèi nǐ yùnyòng shénqí de xiǎngxiàng lì, dùzhuàn chū yī zhī huì kāi chuānghù de māo, yǐhòu nǐ yīdìng kěyǐ xiě chū hǎokàn de zhēntàn xiǎoshuō.”

Trước lúc đi ngủ, người mẹ lấy từ ngăn kéo ra đưa cho con ba thanh sô cô la, nói: “Thanh sô cô la này thưởng cho con. Vì con đã vận dụng trí tưởng tượng thần kì để tưởng tượng ra một chú mèo biết mở cửa sổ, sau này nhất định con có thể viết ra những cuốn tiểu thuyết trinh thám thật hay.”

Thanh sô cô la thứ hai

”接着,她又在孩子 手裏放了一塊巧克力:“這塊巧克力獎給你.因爲你有 傑出的修復能力,裂縫孰合得幾乎完美無缺.

Jiēzhe, tā yòu zài háizi shǒu lǐ fàngle yīkuài qiǎokèlì:“Zhè kuài qiǎokèlì jiǎng gěi nǐ. Yīnwèi nǐ yǒu jiéchū de xiūfù nénglì, lièfèng shú hé dé jīhū wánměi wúquē.”

Tiếp đó bà đặt một thanh sô cô la vào tay con và nói: “Thanh sô cô la này thưởng cho con, vì con có năng lực sửa chữa thật tuyệt vời, các vết nứt được dán rất hoàn hảo.”

Thanh sô cô la thứ ba

”母親又 拿出第三塊巧克力,說:“最後一塊巧克力,代表我對你 深深的歉意.作爲母親,我不應該把花瓶放在容易摔落 的地方,希望你沒有被砸到或者嚇到.

Mǔqīn yòu ná chū dì sān kuài qiǎokèlì, shuō:“Zuìhòu yīkuài qiǎokèlì, dàibiǎo wǒ duì nǐ shēn shēn de qiànyì. Zuòwèi mǔqīn, wǒ bù yìng gāi bǎ huāpíng fàng zài róngyì shuāi luò dì dìfāng, xīwàng nǐ méiyǒu bèi zá dào huòzhě xià dào.”

Người mẹ lại lấy tiếp thanh sô cô la thứ ba, nói: “Thanh sô cô la cuối cùng này là mẹ gửi lời xin lỗi tới con. Là một người mẹ, mẹ không nên để bình hoa ở một nơi dễ đổ vỡ như vậy, mong rằng con không bị rơi trúng hoặc bị doạ sợ.”

”孩子聽了,羞 J愧地低下了頭.從此以後,他再也沒有撒過一次謊.這 是比懲罰更深刻的獎勵.

Háizi tīngle, xiū J kuì de dīxiàle tóu. Cóngcǐ yǐhòu, tā zài yě méiyǒu sāguò yīcì huǎng. Zhè shì bǐ chéngfá gēng shēnkè de jiǎnglì.

Đứa con nghe xong, xấu hổ cuối đầu. Từ đó về sau cậu không nói dối một lần nào nữa. Phần thưởng này còn để lại ấn tượng sâu sắc hơn sự trừng phạt.