Người xưa rất coi trọng chữ tín, đặc biệt tình yêu trong văn hóa truyền thống lại càng như vậy. Sử sách có ghi chép nhiều câu chuyện cảm động…

Nhiều người ngày nay cho rằng, người xưa cổ hủ lạc hậu; hôn nhân chỉ là “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”; thực tế rằng trong xã hội phương Đông thời trước vẫn luôn tồn tại việc nam nữ tự tìm hiểu và phát sinh tình cảm. Tuy nhiên, điểm khác nhau giữa thời nay và thời xưa trong tình yêu là gì?

Quan niệm tình yêu trong văn hóa truyền thống

Tình yêu nam nữ là một phần không thể thiếu của con người, nên hiển nhiên là không ai cấm cưỡng được. Nhưng bởi vì là con người sống trong xã hội, cần có các chuẩn mực đạo đức và lễ nghĩa làm thước đo và giới hạn; để mỗi người tự ước thúc hành vi bản thân cho đúng đắn.

Nói về văn hóa truyền thống, các chuẩn tắc lễ nghĩa và quy phạm đạo đức của ngày xưa rất được coi trọng. Trong Kinh Thi có mô tả rất rõ quan điểm của người xưa về tình yêu nam nữ. Chẳng hạn thiên Quan thư có bài thơ sau:

Quan quan thư cưu,
Tại hà chi châu.
Yểu điệu thục nữ,
Quân tử hảo cầu.

Tạm dịch thơ:

Quan quan kìa tiếng thư cưu,
Bên cồn hót họa cùng nhau vang dầy.
U nhàn thục nữ thế này,
Xứng cùng quân tử sánh vầy lứa duyên.

Quan niệm tình yêu của ngày xưa
Sách “Liệt nữ truyện” cho là người ta chưa từng thấy chim thư cưu sống dư cặp hay bị lẻ loi.

“Thư cưu” là loài chim nước, sống khu vực sông Trường giang và sông Hoài. Loài chim này sống có đôi nhất định mà không hề lẫn lộn. Hai con thường lội chung mà không lả lơi, cho nên sách cổ nói rằng: đôi chim thư cưu tình ý chí thiết, mặn nồng.

Câu chuyện tình yêu: Vĩ Sinh đã giữ trọn vẹn chữ tín với người yêu

Chuyện kể rằng, Vĩ Sinh là người nước Lỗ, vốn là một Nho sinh, tính tình hiền lành và rất giữ chữ tín. Vĩ Sinh nổi tiếng văn hay chữ tốt. Trong trường, bài của Vĩ Sinh thường được thầy đem ra bình. Gần trường là nhà viên ngoại họ Triệu có nàng con gái tên Thường Khanh. Giờ bình văn, nàng thường sang trường, đứng sau vách nghe trộm. Sau nhiều lần như thế, trong lòng Thường Khanh có tình cảm dù chưa nói ra.

Vĩ Sinh mỗi lần đến trường, đi qua vườn hoa của viên ngoại họ Triệu đều nhìn thấy bóng nàng Thường Khanh đang hái hoa. Trong lòng Vĩ Sinh cũng đã phát sinh yêu mến. Một lần, Vĩ Sinh dũng cảm đứng lại, hỏi xin nàng một cành hoa. Thường Khanh e lệ cười, cầm hoa tặng cho Vĩ Sinh.

Câu chuyện tình yêu: Vĩ Sinh đã giữ trọn vẹn chữ tín với người yêu
Ngày nào cũng thế, mỗi khi Vĩ Sinh đi qua thì đã có nàng ở đó. Họ tuy không hẹn nhưng đều gặp nhau.

Một hôm Vĩ Sinh xin hẹn gặp Thường Khanh bên một đầu cầu phía Tây, để tâm sự kết niềm giao ước. Thường Khanh nghe xong, rất vui vẻ nhận lời.

Hôm đó, Vĩ Sinh đến bên cầu chờ đợi, mãi không thấy bóng nàng đến. Thế rồi, bỗng mây kéo đến đen kịt, trời tối sầm lại. Mưa ngày càng to hạt. Vì giữ chữ tín và lo lắng Thường Khanh ra cầu sẽ bị ủy khuất; Vĩ Sinh vẫn đứng chờ mà không về. Chàng xuống dưới cầu để tránh mưa. Gió giật mạnh từng hồi như muốn xô đổ cây; Vĩ Sinh vẫn cố chờ đợi. Vì mưa gió quật mạnh, nước dưới cầu chảy xiết, đã cuốn trôi chàng thư sinh…

Giữ lời hứa trong tình yêu là một phẩm chất đạo đức cao quý

Kỳ thực, chữ Tín trong tình yêu của văn hóa truyền thống phương Đông và phương Tây đều được coi trọng. Người phương Tây khi vào nhà Thờ làm lễ thành hôn, cũng là phát lời thề nguyện trước Chúa. Đây là quan niệm về giá trị đạo đức phổ quát của nhân loại ngày xưa.

Theo phương Đông, người ta tin rằng lời một khi đã nói ra thì Trời Đất đều biết. Một khi giữa nam và nữ có tình cảm với nhau, thì người nam phải có trách nhiệm với người nữ.

Người nam khi đã là chồng rồi thì phải gánh vác công việc nặng nhọc, đảm đương những điều lớn lao; không chỉ lo cho gia đình mà còn biết lo cho xã hội. Người nữ khi đã là vợ rồi phải cố gắng quản việc trong gia đình, chăm sóc cha mẹ, nuôi dạy con cái. Đây vừa là trách nhiệm, vừa là tiêu chuẩn đánh giá phẩm đức của tình yêu và hôn nhân truyền thống.

Giữ lời hứa trong tình yêu là một phẩm chất đạo đức cao quý
Chữ Tín trong tình yêu của văn hóa truyền thống phương Đông và phương Tây đều được coi trọng (ảnh minh họa: internet).

Trong quan niệm truyền thống, người xưa cho phép nam nữ có tình yêu; nhưng từ đầu đến cuối là có tiết chế và lễ nghi; không giống như người hiện đại đã phóng túng, “tự do yêu đương”, “giải phóng tình dục”… Bởi vì, cái gọi là “tự do”, “giải phóng” này có hàm ý không cần tiết chế, không bàn đến phẩm chất đạo đức và giá trị phổ quát. Do vậy, tất yếu sẽ gây ra những thảm kịch cho gia đình và xã hội.

Tình yêu trong văn hóa truyền thống có nhiều điều đáng cho chúng ta học hỏi. Từ khi mới phát sinh tình cảm, tất cả lễ độ, tín nghĩa đều giữ trọn vẹn.