Lễ hội đền Kiếp Bạc là một trong những lễ hội lớn nhất miền Bắc; diễn ra hằng năm tại vùng đất linh thiêng Chí Linh, Hải Dương – Nơi lưu dấu cuộc đời và sự nghiệp của Trần Hưng Đạo; vị anh hùng dân tộc lỗi lạc trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của Đại Việt. Về với Kiếp Bạc không chỉ là một chuyến hành hương; mà là hành trình trở về với hồn thiêng sông núi, với cội nguồn dân tộc đã từng làm nên những trang sử chói lọi.
- Quan hệ cha mẹ – Con cái: Nền tảng đạo lý văn hóa Việt
- Dâu hiền – Rể thuận: Đạo ấm nhà yên, gốc rễ vững bền
- Khi tiếng ru mờ dần trong giấc ngủ trẻ thơ
Xem nhanh
Lễ hội đền Kiếp Bạc – Nơi thời gian như ngưng đọng
Mỗi năm, từ ngày 15 đến 20 tháng Tám âm lịch; dòng người từ khắp mọi miền đất nước lại đổ về Chí Linh dự lễ hội đền Kiếp Bạc; nhân ngày giỗ của Hưng Đạo Đại Vương – Người được dân gian tôn kính là Đức Thánh Trần. Trong tiếng trống rộn ràng; tiếng chiêng ngân nga từ xa vọng lại; người ta như thấy lòng mình lắng xuống; sống chậm lại để lắng nghe tiếng vọng của tiền nhân.
Về Kiếp Bạc trong mùa lễ hội; ta bắt gặp hình ảnh những cụ già lặng lẽ bên bậc đền; tay lần tràng hạt; mắt ánh lên sự thành kính. Ta cũng thấy các bà mẹ dắt con nhỏ lên đền; vừa vái lạy vừa thủ thỉ kể chuyện “ông Trần đánh giặc Mông”; chuyện những chiến công giữ nước lẫy lừng của một thời oanh liệt. Không khí linh thiêng ấy khiến lễ hội không chỉ là một sự kiện; mà trở thành dịp kết nối tâm linh sâu sắc giữa người sống và người đã khuất.
Trần Hưng Đạo – Vị tướng của nhân dân, vị thánh của muôn đời
Lễ hội đền Kiếp Bạc chính là dịp để nhân dân tưởng nhớ vị anh hùng dân tộc vĩ đại – Trần Hưng Đạo; tên thật là Trần Quốc Tuấn; con của An Sinh Vương Trần Liễu; cháu ruột vua Trần Thái Tông. Ông là một chính trị gia; nhà quân sự kiệt xuất của thế kỷ XIII – Người đã ba lần lãnh đạo quân dân Đại Việt đánh bại quân Nguyên – Mông hùng mạnh.

Chiến công của ông không chỉ được ghi lại trong sử sách; mà còn sống mãi trong lòng dân với những chiến thuật tài tình như “tả xung hữu đột”; “dụ địch vào mai phục”; hay chiến lược rút lui chiến lược để bảo toàn lực lượng. Nhưng trên tất cả; điều khiến nhân dân đời đời kính ngưỡng ông chính là cái tâm vì nước; vì dân; là khí phách của một bậc quân tử đặt lợi ích non sông lên trên mọi mối thù riêng tư.
Sau khi ông qua đời; nhân dân lập đền thờ tại chính nơi ông từng đóng quân và trút hơi thở cuối cùng – Vùng đất Kiếp Bạc. Hàng trăm năm qua; ngôi đền đã trở thành địa chỉ linh thiêng; nơi người dân khắp nơi tìm về gửi gắm niềm tin; sự biết ơn và lòng tôn kính.
Lễ hội đền Kiếp Bạc – Khúc trầm của hồn thiêng sông núi
Không gian lễ hội đền Kiếp Bạc bao trùm trong làn hương trầm và tiếng khấn nguyện. Từ lễ rước thủy trên sông Lục Đầu; đến rước bộ qua các đền miếu; từ nghi thức tế lễ nam quan – Nữ quan cho đến những buổi hát chầu văn; múa bóng, trình đồng… tất cả tạo nên một không gian văn hóa dân gian đậm đặc bản sắc Việt.

Giữa nhịp sống hiện đại; lễ hội đền Kiếp Bạc vẫn giữ được hồn cốt cổ xưa – Không phô trương; không hào nhoáng – Mà giản dị; trang nghiêm và thấm đẫm niềm tin tâm linh. Chính điều ấy khiến nơi đây không chỉ là di tích; mà là ký ức sống động của dân tộc.
Có những người về dự hội không chỉ để lễ lạt; mà để cảm nhận – Để đứng giữa dòng người; giữa tiếng trống, tiếng mõ và mùi hương khói ngàn năm; mà lắng nghe tiếng nói của lịch sử vọng về từ ngọn núi; dòng sông, từ những phiến đá rêu phong nơi chân đền.
Lễ hội đền Kiếp Bạc – Nén tâm hương dâng người giữ nước
Thắp một nén hương tại đền Kiếp Bạc; nhiều người không chỉ cầu tài; cầu lộc, mà cầu cho quốc thái dân an; cho nhân nghĩa vững bền. Người đến đền không chỉ để xin ơn mà còn để dâng nghĩa – Nghĩa với tiền nhân; với đất nước; với chính đạo lý dân tộc truyền đời: “Uống nước nhớ nguồn”.
Lễ hội đền Kiếp Bạc vì thế không đơn thuần là một ngày lễ truyền thống; mà là một dịp để mỗi người Việt tự soi mình trong gương lịch sử. Nhìn về Trần Hưng Đạo để nhắc nhở bản thân sống có nghĩa; có tình, có trách nhiệm với quê hương; với giống nòi.